Tranh Đông Hồ, một dòng tranh dân gian mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, xuất xứ từ làng Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh). Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những nét vẽ và màu sắc đặc trưng của tranh Đông Hồ vẫn giữ vững sức sống, phản ánh chân thực tâm hồn và cuộc sống giản dị, bình dị của người dân Việt Nam xưa. Mỗi bức tranh không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn chứa đựng những thông điệp, ước vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình an.

Hình ảnh trong tranh Đông Hồ gắn liền với khung cảnh làng quê thân thuộc, ngõ xóm và những hoạt động sinh hoạt đời ngày. Chính cái “hồn” của cuộc sống đã được các nghệ nhân gửi gắm vào từng đường nét, màu sắc, tạo nên một dòng tranh độc đáo, gần gũi với mọi thế hệ người Việt. Việc tìm hiểu và khám phá vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của những tác phẩm này không chỉ giúp chúng ta thêm yêu truyền thống mà còn là một cách để cảm nhận sâu sắc hơn về nghệ thuật dân gian. Đôi khi, việc [vẽ tranh cấm hút thuốc lá] hoặc [tranh cổ động về phòng chống thuốc lá] cũng là một cách thể hiện tinh thần cộng đồng, tương tự như cách tranh Đông Hồ phản ánh xã hội xưa qua những hình ảnh quen thuộc.

Dưới đây là 10 bức tranh hoặc cặp tranh dân gian Đông Hồ phổ biến và được nhiều người biết đến nhất, mỗi bức đều mang trong mình một câu chuyện và ý nghĩa riêng:

Đàn Lợn Âm Dương

Trong đời sống nông thôn Việt Nam xưa, lợn là loài vật nuôi quen thuộc, biểu tượng cho sự sung túc. Bức tranh “Đàn lợn âm dương” mô tả cảnh đàn lợn con béo tốt quây quần bên lợn mẹ. Hình ảnh xoáy âm dương trên mình lợn là biểu tượng mạnh mẽ cho sự sinh sôi, nảy nở, phát triển.

Tranh thể hiện ước muốn về một cuộc sống sung túc, ấm no, an lành, con đàn cháu đống. Ngày xưa, tranh này thường được treo trong dịp Tết với hy vọng một năm mới thịnh vượng, phát tài phát lộc. Nó cũng thường là món quà ý nghĩa dành tặng các cặp vợ chồng mới cưới như lời chúc sớm có tin vui. Những màu sắc và đường nét dân dã trên tranh lợn Đông Hồ đã truyền tải trọn vẹn khát vọng bình dị của người nông dân.

Đàn lợn con quây quần bên lợn mẹ trong tranh Đông HồĐàn lợn con quây quần bên lợn mẹ trong tranh Đông Hồ

Bài thơ “Bên kia sông Đuống” của nhà thơ Hoàng Cầm đã nhắc đến hình ảnh quen thuộc này:
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong,
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.”

Đàn Gà Mẹ Con

Tương tự như tranh lợn, gà cũng là biểu tượng quen thuộc trong đời sống nông nghiệp. Bức tranh “Đàn gà mẹ con” thể hiện hình ảnh gà mẹ xòe cánh che chở cho đàn gà con đang tìm mồi.

Tác phẩm này biểu trưng cho tình mẫu tử thiêng liêng, sự hy sinh tảo tần của người mẹ dành cho đàn con. Đồng thời, nó còn gửi gắm thông điệp về đạo lý làm con: gà mẹ có thể nuôi mười con, nhưng chưa chắc mười con đã nuôi được mẹ, nhắc nhở về lòng hiếu thảo và trách nhiệm của con cái. Tranh thường sử dụng 4 màu cơ bản: đỏ nâu, xanh, vàng, đen, với lần in màu đen cuối cùng để hoàn thiện tác phẩm.

Gà mẹ che chở đàn gà con trong tranh Đông Hồ với 4 màu sắcGà mẹ che chở đàn gà con trong tranh Đông Hồ với 4 màu sắc

Đám Cưới Chuột

Một trong những tác phẩm nổi tiếng và mang tính châm biếm sâu sắc nhất của tranh Đông Hồ là “Đám cưới chuột”. Ra đời cách đây khoảng 500 năm, bức tranh là sự kết hợp giữa yếu tố hài hước và phê phán xã hội.

Bức tranh nhân hóa loài chuột, miêu tả cảnh rước dâu của nhà chuột. Điều đáng chú ý là để đám cưới diễn ra suôn sẻ, chú rể chuột phải mang lễ vật (chim, cá) để cống nạp cho mèo – kẻ thù truyền kiếp.

Cảnh đám cưới chuột với lễ vật cống mèo và đoàn rước dâu náo nhiệtCảnh đám cưới chuột với lễ vật cống mèo và đoàn rước dâu náo nhiệt

Tranh có 12 con chuột và 1 con mèo, chia làm hai tầng. Tầng trên là cảnh dâng lễ cho mèo (bốn con chuột). Tầng dưới là cảnh rước dâu (tám con chuột). Chú rể chuột cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn rước, cô dâu ngồi kiệu. Bức tranh vừa mang tính giải trí bởi sự ngộ nghĩnh của các nhân vật, vừa ngụ ý châm biếm thói đời “hối lộ” để mọi việc được yên ổn. Để in bức tranh này, nghệ nhân cần đến 4 khuôn in gỗ, mỗi khuôn một màu, in lần lượt và màu đen in cuối cùng.

Chi tiết rước dâu của chuột trong tranh Đông HồChi tiết rước dâu của chuột trong tranh Đông Hồ

Hứng Dừa

Bức tranh “Hứng dừa” là một hình ảnh bình dị nhưng giàu ý nghĩa về hạnh phúc gia đình. Tranh khắc họa cảnh người con trai trèo cây dừa hái quả, còn người con gái đứng dưới dùng váy để hứng.

Hành động này thể hiện sự phối hợp, yêu thương và trân trọng hạnh phúc. Người con trai là trụ cột, đảm nhận công việc khó khăn, còn người con gái khéo léo, nâng niu thành quả. Việc dùng váy hứng dừa thay vì tay không cho thấy sự nâng niu, giữ gìn hạnh phúc gia đình không để “rơi vỡ”. Tranh đi kèm hai câu thơ lục bát thể hiện rõ ý nghĩa: “Khen ai khéo tạc nên dừa / Đứng đây hứng cho vừa một đôi”.

Cảnh hái và hứng dừa thể hiện hạnh phúc gia đìnhCảnh hái và hứng dừa thể hiện hạnh phúc gia đình

Vinh Quy Bái Tổ

Bức tranh này còn có tên gọi khác là “Quan Trạng Về Làng”. Đây là hình ảnh biểu tượng cho sự thành đạt, vinh hiển và lòng biết ơn. Tranh miêu tả cảnh tân khoa (người đỗ đạt cao trong kỳ thi) cưỡi ngựa, được đoàn tùy tùng rước về quê hương trong sự chào đón của dân làng.

Lễ “Vinh Quy Bái Tổ” là dịp để người đỗ đạt bày tỏ lòng kính trọng, biết ơn đối với tổ tiên, cha mẹ và thầy dạy, thể hiện đúng đạo lý “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy” của người Việt. Lễ này bắt nguồn từ năm 1484 khi vua Lê Thánh Tông ban lệ “Bia đá đề danh” và cho phép các tân khoa được rước về quê quán. Nếu tân khoa đã có gia đình, người vợ cũng được rước cùng chồng theo đúng lệ “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”. Về đến làng, tân khoa sẽ bái tạ tổ tiên ở nhà thờ họ, đình làng, rồi về bái tạ thầy dạy và cha mẹ. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và sự đền đáp công ơn trong văn hóa Việt. Bên cạnh những bức tranh mang tính lịch sử, chúng ta cũng có thể thấy những tác phẩm hiện đại hơn như [trẻ em tranh vẽ phòng chống bạo lực học đường] thể hiện mối quan tâm đến các vấn đề xã hội.

Đoàn rước Quan Trạng về làng, cảnh Vinh Quy Bái Tổ trang trọngĐoàn rước Quan Trạng về làng, cảnh Vinh Quy Bái Tổ trang trọng

Bức tranh Vinh Quy Bái Tổ chi tiết cảnh đoàn rướcBức tranh Vinh Quy Bái Tổ chi tiết cảnh đoàn rước

Vinh Hoa – Phú Quý

Đây có lẽ là cặp tranh Đông Hồ được biết đến rộng rãi nhất, chỉ cần nhìn là nhận ra ngay phong cách đặc trưng. Hai bức tranh này cầu mong cho con cái trong gia đình (bé trai trong “Vinh Hoa”, bé gái trong “Phú Quý”) khi lớn lên sẽ có cuộc sống thành đạt, giàu sang (Vinh Hoa) và có của cải, may mắn (Phú Quý).

Bố cục tranh đơn giản, tập trung khắc họa hình ảnh em bé ôm vật tượng trưng: bé trai ôm gà (gà trống tượng trưng cho sự oai vệ, đỗ đạt – “vinh hoa”), bé gái ôm vịt (vịt thường đi thành đàn, gợi sự đông đúc, giàu có – “phú quý”). Màu sắc tươi sáng, đường nét khỏe khoắn, khuôn mặt em bé sinh động, đáng yêu. Để hoàn thành một bức tranh như “Phú Quý”, nghệ nhân cần sử dụng 5 khuôn in gỗ, mỗi khuôn một màu, in lần lượt từ màu đậm đến nhạt và màu đen in cuối cùng. Quy trình in màu từng lớp đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo léo.

Cặp tranh Vinh Hoa - Phú Quý, biểu tượng cho ước vọng về con cáiCặp tranh Vinh Hoa – Phú Quý, biểu tượng cho ước vọng về con cái

Bộ 5 khuôn in gỗ dùng để in tranh Phú Quý Đông HồBộ 5 khuôn in gỗ dùng để in tranh Phú Quý Đông Hồ

Lý Ngư Vọng Nguyệt / Cá Chép Trông Trăng

Cá chép là biểu tượng quen thuộc gắn liền với câu chuyện “Cá chép vượt vũ môn hóa rồng”, tượng trưng cho sự thăng tiến trong công danh, sự nghiệp và tài lộc. Tranh “Lý Ngư Vọng Nguyệt” hay “Cá Chép Trông Trăng” kết hợp hình ảnh cá chép, mặt trăng và hoa sen, đều là những hình ảnh đẹp và giàu ý nghĩa biểu tượng.

Tranh nhắc nhở về tinh thần nỗ lực, ý chí vượt khó để đạt được thành công. Cá chép ngước nhìn vầng trăng (ảnh trăng dưới nước), thể hiện khát vọng vươn cao. Bộ tranh cá chép trông trăng thường được treo ở phòng khách, phòng làm việc hoặc làm quà tặng dịp khai trương, với mong muốn mang lại may mắn, thuận lợi trên con đường sự nghiệp và cuộc sống.

Tranh Cá Chép Trông Trăng (Lý Ngư Vọng Nguyệt) với hình ảnh cá chép, trăng, senTranh Cá Chép Trông Trăng (Lý Ngư Vọng Nguyệt) với hình ảnh cá chép, trăng, sen

Một phiên bản khác của tranh Cá Chép Trông TrăngMột phiên bản khác của tranh Cá Chép Trông Trăng

Chăn Trâu Thổi Sáo – Chăn Trâu Thả Diều

Cặp tranh này ca ngợi cuộc sống bình yên ở làng quê Việt Nam xưa và ước vọng về sự thành đạt. Tranh khắc họa hình ảnh những chú bé mục đồng ngồi trên lưng trâu, một bức thì thổi sáo, một bức thì thả diều.

Trong xã hội nông nghiệp trước đây, con trâu là tài sản lớn (“Con trâu là đầu cơ nghiệp”) và cũng là người bạn thân thiết của trẻ em. Bức tranh thể hiện sự giản dị, thanh bình của tuổi thơ nơi làng quê, chú bé vừa làm nhiệm vụ trông nom trâu vừa vui đùa, tận hưởng cuộc sống. Tiếng sáo và cánh diều bay cao còn gợi lên khát vọng về tương lai tươi sáng. Hình ảnh tàu lá sen và cánh diều trên đầu chú bé cũng như con trâu vểnh tai nghe sáo hoặc chạy theo cánh diều tạo nên một khung cảnh đầy chất thơ và sự hồn nhiên.

Cặp tranh Chăn Trâu với hình ảnh chú bé thổi sáo và thả diềuCặp tranh Chăn Trâu với hình ảnh chú bé thổi sáo và thả diều

Những câu ca dao về con trâu cũng đã đi sâu vào tiềm thức người Việt:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa trổ bông
Đồng đầy ngọn cỏ tha hồ trâu ăn”

Một góc khác của tranh Chăn Trâu, nhấn mạnh hình ảnh chú bé và trâuMột góc khác của tranh Chăn Trâu, nhấn mạnh hình ảnh chú bé và trâu

Lợn Ấy Cây Ráy

Bên cạnh “Đàn lợn âm dương”, tranh “Lợn ấy cây ráy” cũng là một tác phẩm nổi bật về chủ đề vật nuôi, mang hàm ý sâu xa về sự phát triển và sung mãn.

Tranh mô tả một con lợn với thân hình mập mạp, đang cúi mình ngoạm chặt cây ráy. Cây ráy là thức ăn phổ biến của lợn xưa kia. Con lợn được vẽ với mõm dài, miệng rộng (“miệng xô ngày nhai hai gánh cám” – ý chỉ loài lợn háu ăn, mau lớn). Chi tiết đường viền khác màu và chùm lông lệch trên lưng thường được xem là dấu hiệu của loại lợn ngoan, khỏe và nhanh lớn. Tư thế lợn cúi xuống, thân hình đồ sộ hơi ngả sau với dáng đi mạnh mẽ, dứt khoát khi cắn vào cây thể hiện sức sống và sự phàm ăn, ngụ ý về sự phát triển mạnh mẽ, bội thu. Đối với những ai yêu thích sáng tạo và tìm hiểu về các dụng cụ vẽ, chiếc [kệ vẽ tranh] cũng là một vật dụng quen thuộc, giúp người nghệ sĩ thoải mái thể hiện tài năng.

Con lợn mập mạp đang ngoạm cây ráy trong tranh Đông HồCon lợn mập mạp đang ngoạm cây ráy trong tranh Đông Hồ

Nhân Nghĩa – Lễ Trí

Cặp tranh “Nhân Nghĩa” và “Lễ Trí” là hai bức tranh mang tính giáo dục cao, gửi gắm những phẩm chất tốt đẹp cần có ở con người theo quan niệm truyền thống.

Tranh “Lễ Trí” khắc họa em bé ôm rùa. Rùa là linh vật biểu trưng cho sự trường thọ, sức khỏe và trí tuệ. Tranh gửi gắm ước nguyện cho bé gái lớn lên được khỏe mạnh, sống lâu, xinh đẹp, nhu mì, hiền dịu, chăm chỉ, đảm đang. “Lễ” là sự kính cẩn, lễ phép với người trên và ứng xử phải phép với mọi người. “Trí” là sự thông minh, tài giỏi, lanh lợi. Tranh này còn có tên gọi “Gái sắc bế rùa xanh”.

Cặp tranh Nhân Nghĩa và Lễ Trí, biểu tượng cho phẩm chất đạo đứcCặp tranh Nhân Nghĩa và Lễ Trí, biểu tượng cho phẩm chất đạo đức

Tranh “Nhân Nghĩa” vẽ em bé ôm cóc tía. Cóc tía gắn liền với câu chuyện Cóc kiện trời đòi mưa, biểu tượng cho sự dũng cảm, dám đấu tranh vì lẽ phải, vì cộng đồng. Tranh thể hiện ước nguyện cho bé trai lớn lên trở thành người tài giỏi, có “Nhân” (tình người, lòng yêu thương) và có “Nghĩa” (sự công bằng, dám bảo vệ người khác), mang lại lợi ích cho xã hội. Tranh này còn được gọi là “Trai tài ôm cóc tía”. Việc học [vẽ tranh tường nhà ở] cũng là một cách để thể hiện cá tính và truyền tải những thông điệp đẹp trong cuộc sống thường ngày.

Chi tiết tranh Nhân Nghĩa với hình ảnh em bé ôm cóc tíaChi tiết tranh Nhân Nghĩa với hình ảnh em bé ôm cóc tía

Khám phá những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng này giúp chúng ta hiểu thêm về nét đẹp văn hóa, tâm hồn dân tộc Việt Nam qua nghệ thuật dân gian. Mỗi tác phẩm là một câu chuyện, một bài học ý nghĩa, góp phần gìn giữ và phát huy giá trị di sản phi vật thể quý báu.

Nguồn: www.tranhdangiandongho.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *